Hành trình số hóa đưa chè Phú Đô vươn xa
Giữa vùng đồi núi Phú Đô từng nghèo khó, cây chè đang được “thay áo mới” nhờ tư duy sản xuất xanh và chuyển đổi số do người trẻ Hoàng Văn Tuấn khởi xướng. Từ cải tạo đất đến số hóa quy trình, HTX chè an toàn Phú Đô từng bước hồi sinh nương chè cằn, nâng chất sản phẩm và đưa thương hiệu địa phương vươn xa.
Từng là một xóm nghèo heo hút của xã Phú Đô (nay thuộc xã Vô Tranh, huyện Phú Lương), Phú Thọ nhiều năm gắn với hình ảnh những triền đồi lúp xúp, nơi hơn 90% cư dân là đồng bào dân tộc thiểu số sống dựa vào cây chè. Giữa bộn bề thiếu thốn, những luống chè vẫn bền bỉ xanh lên, như một phần ký ức của người bản địa. Thế nhưng, phải đến vài năm gần đây, vùng chè cằn mới thực sự “bừng tỉnh” khi câu chuyện chuyển đổi số được viết nên từ khát vọng của một người trẻ – Hoàng Văn Tuấn, Chủ nhiệm HTX chè an toàn Phú Đô.
Sinh năm 1993, lớn lên trong cảnh bà con sớm hôm với nương chè bạc màu vì lạm dụng phân hóa học, Hoàng Văn Tuấn thấu hiểu hơn ai hết cái vòng luẩn quẩn “đất kém – chè yếu – giá thấp”. Những trăn trở ấy đi cùng anh suốt quãng thời gian học tại Trường Đại học Khoa học (Đại học Thái Nguyên), để rồi khi cầm trên tay tấm bằng Thạc sĩ Quản lý tài nguyên và môi trường, anh không chọn ở lại phố thị mà quyết tâm trở về quê.
Việc đầu tiên Tuấn làm là… cải tạo đất. Anh tìm đến những vật liệu quen thuộc của núi rừng, than củi, phân trâu gà, mùn cưa, phân trùn quế, phối trộn thành phân hữu cơ để “hồi sinh” những đồi chè đã chai sạn sau nhiều năm bị vắt kiệt. Chỉ sau vài vụ, đất tơi hơn, cây khỏe hơn, chồi non dày, xanh, thơm, dấu hiệu đầu tiên cho thấy hướng đi hoàn toàn đúng.
Từ những thử nghiệm thành công, Tuấn vận động 6 hộ đầu tiên cùng lập HTX chè an toàn Phú Đô, rồi dần dần mở rộng liên kết lên gần 40 hộ. Nhưng mục tiêu của anh không dừng ở sản xuất sạch. Với Tuấn, chuyển đổi số mới là “bước nhảy” để nông nghiệp miền núi bứt phá.
Điểm ngoặt lớn nhất trong hành trình của HTX là khi Tuấn đưa nhật ký sản xuất điện tử Facefarm vào quy trình chăm sóc chè. Với người nông dân nơi đây, điện thoại chỉ để nghe – gọi; nhưng dưới sự kiên trì hướng dẫn của anh, họ bắt đầu biết chụp ảnh, quay video, tải dữ liệu lên hệ thống.
Từ khâu bón phân, tưới nước đến phòng trừ sâu bệnh, thu hái… tất cả đều được ghi lại bằng hình ảnh, tạo nên một “hồ sơ số” minh bạch cho từng luống chè. Với cách làm này, người sản xuất kiểm soát tốt hơn quy trình, khách hàng thì yên tâm về chất lượng, yếu tố sống còn với nông sản hiện đại.
Không chỉ số hóa sản xuất, Tuấn còn đưa HTX bước vào một sân chơi mà trước đây bà con khó hình dung: thị trường số. Sản phẩm được đưa lên website, fanpage, sàn thương mại điện tử; đồng thời, HTX áp dụng chấm công điện tử, tính lương tự động và trả lương qua tài khoản ngân hàng.
Những thao tác vốn xa lạ với nông dân giờ đã trở thành thói quen. Quan trọng hơn, chúng giúp HTX tiết kiệm thời gian, minh bạch quản lý và tiếp cận người mua ở phạm vi rộng hơn.
Nhờ chuyển đổi số, diện tích sản xuất của HTX tăng lên 27,2 ha, trong đó 5 ha chè hữu cơ, 5 ha chè sinh thái. Hiện HTX có 6 dòng sản phẩm chủ lực với mức giá từ 200 nghìn – 5 triệu đồng/kg: trà búp, trà nõn, trà đinh, trà hoa, trà lá và nhân trần trà.
Năm 2024, sản lượng chè búp khô đạt 32 tấn – con số ấn tượng với một HTX miền núi mới hoạt động chưa lâu. Đặc biệt, sản phẩm trà tôm nõn Hoàng Gia gây tiếng vang lớn khi vượt gần 700 sản phẩm toàn cầu để giành Huy chương Đồng tại Giải thưởng Golden Leaf Awards (Lá Vàng) ở Úc.
Đó không chỉ là giải thưởng cho một sản phẩm, mà còn là minh chứng cho mô hình phát triển nông nghiệp kiểu mới: bắt đầu từ thay đổi tư duy, bền vững bằng sản xuất xanh và bứt phá nhờ chuyển đổi số.